Từ ngàn đời nay, con người luôn tìm hiểu về quy luật vận hành của vũ trụ và bản thân. Âm Dương Ngũ Hành là triết lý sâu sắc giúp giải mã bí ẩn về sự sống, sức khỏe và bệnh tật.
Bài viết này sẽ đưa bạn đến với hành trình khám phá thuyết Âm Dương trong Đông y
1. Định nghĩa
Cách đây gần 3.000 năm, người xưa đã nhận thấy sự vật luôn luôn cómâu thuẫn nhưng thống nhất với nhau, không ngừng vận động, biến hoá đềphát sinh, phát triển và tiêu vong, gọi là Học thuyết âm dương
Trong y học, Học thuyết âm dương quán triệt từ đầu đến cuối, từ đơn giản đến phức tạp trong suốt quá trình cấu tạo cơ thể, sinh lý, bệnh lý, chầnđoán, và các phương pháp chữa bệnh y học cổ truyển (thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công v.v…)
2. Các quy luật cơ bản trong học thuyết âm dương
2.1. Âm dương đối lập với nhau
Đối lập là sự mâu thuẫn, chế ước và đấu tranh giữa hai mặt âm dương.Thí dụ: ngày và đêm, nước và lửa, úc chế và hưng phấn v.v…
2.2. Âm dương hỗ căn
Hỗ căn là sự nương tựa lẫn nhau. Hai mặt âm dương tuy đối lập với nhau nhưng phải nương tựa lẫn nhau mới tổn tại được, mới có ý nghĩa .Cả hai mặt đều là tích cực của sự vật, không thể đơn độc phát sinh, phát triển được.
Thí dụ: Có đồng hoá mới có dị hoá, hay ngược lại nếu không có dị hoá thì quá trình đồng hoá không tiếp tục được. Có số âm mới có số dương. Hưng -phấn và ức chế đều là quá trình tích cực của hoạt động vỏ não.
2.3. Âm dương tiêu trưởng
Tiêu là sự mất đi, trưởng là sự phát triển, nói lên sự vận động không ngừng sự chuyển hoá lẫn nhau giữa hai mặt âm dương . Như khí hậu 4 mùa trong năm luôn thay đổi từ lạnh sang nóng, từ nóng sang lạnh là quá trình “dương tiêu âm trường” do đó có khí hậu mát ,lạnh, ấm và nóng sẽ chuyển hoá sang nhau gọi là “dương cực sinh âm, âm cực sinh âm .Sự vận động của hai mặt âm dương có tính chất giai đoạn, tới mức độ hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn”(như sốt cao) có khi gây ảnh hưởng đến phần âm (như mất nước), hoặc như bệnh thuộc phần dương ở phần âm (mất nước, mất điện giải) tới mức độ nào đó sẽ ảnh hường đến phần dương (như choáng, truy mạch gọi là thoát dương)
2.4. Âm dương bình hành
Hai mặt âm dương tuy đối lập, vận động không ngừng, nhưng luôn lặp lại được thế thăng bằng, thế quân bình . Sự mất thăng bằng giữa hai mặt âm dương nói lên sự mâu thuẫn , thống nhất, vận động và nương tựa lẫn nhau của vật chất. Từ quy luật trên , khi vận dụng trong y học người ta còn thấy một số phạm trù sau :
a) Sự tương đối và tuyệt đối của hai mặt âm dương:
Sự đối lập giữa hai mặt âm dương là tuyệt dõi, nhưng trong điều kiện cụ thể nào đó có tính chất tương đổi. Thí du: hàn thuộc âm đối lập với nhiệt thuộc dương, nhưng lương (là mất) thuộc âm đổi lập với ôn (là ấm) thuộc dương. Trên lâm sàng tuy sốt (là nhiệt) thuộc dương, nếu sốt cao thuộc lý thuộc lý dùng thuốc hàn, sốt nhẹ thuộc biểu dùng thuốc mát (lương).
b) Trong âm có dương và trong dương có âm:
Âm và dương nương tựa lẫn nhau cùng tổn tại, có khi xen kẽ vào nhau trong sự phát triển. Như sự phân chia thời gian trong một ngày (24 giờ): ban ngày thuộc dương, từ 6 giờ sáng đến 12 giờ trưa là phần dương của dương .Từ 12 giờ đến 18 giờ là phần âm của dương; ban đêm thuộc âm, từ 18 giờ –24 giờ là phần âm của âm từ 0 giờ dến 6 giờ là phần dương của âm.
Trên lâm sàng, khi cho thuốc làm ra mổ hội để hạ sốt, cần chú ý tránh cho ra mổ hội nhiều gây mất nước và điện giải. Về triệu chứng thấy xuất hiện các chứng hư thực, hàn nhiệt lẫn lộn. Về cấu trúc của cơ thể, tạng thuộc âm như can, thận có can âm (can huyết), can dương (can khí),thận âm ( thận thuỷ), thận dương (thận hoả) v.v…
c) Bản chất và hiện tượng:
Thông thường bản chất thường phù hợp với hiện tượng, khi chữa bệnh người ta chữa vào bản chất bệnh: như bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc hàn.
Nhưng có lúc bản chất không phù hợp với hiện tượng gọi là sự “thật giả” (chân giả) trên lâm sàng, khi chẩn đoán phải xác đinh cho đúng bản chất dể dùng thuốc chữa đúng nguyên nhân..
Thí dụ: bệnh truyền nhiễm gây sốt cao (chân nhiệt) do nhiễm độc gây truy mạch ngoại biên làm chân tay lanh, ra mổ hội lanh (giả hàn) phải dùng thuốc mát để chữa bệnh.
Bệnh ia chảy do lạnh (chân hàn) do mất nước, mất điện giải gây nhiễm độc thần kinh làm co giật, sốt (giả nhiệt) phải dùng các thuốc nông, ấm đề chữa nguyên nhân.
Các quy luật âm dương, các phạm trù của nó được biểu hiện bằng một hình tròn có hai hình cong chia diện tích làm hai phần bằng nhau: một phẩn là âm, một phần là dương. Trong phần âm có nhân dương và trong phần dương có nhân âm
3.Ứng dung trong y học
3.1. Về cấu tao cơ thể và sinh lý
Âm: tạng, kinh âm, huyết, bụng, trong, dưới v.v…Dương: phủ, kinh dương, khí, lưng, ngoài, trên v.v…
Tạng thuộc âm, do tính chất trong âm có dương nên còn phân ra phếẩm, phế khí; thân âm, thân dương; can huyết, can khí; tâm huyết, tâm khí.Phủ thuộc dương như vì trong dương có âm nên có vị âm và vị hoả..
Vật chất dinh dưỡng thuộc âm, cơ năng hoạt động thuộc dương
3.2. Về quá trình phát sinh và phát triển của bệnh tật
a) Bệnh tật phát sinh ra do sự mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể được biểu hiện bằng thiên thắng hay thiên suy :
Thiên thắng: dương thắng gây chứng nhiệt sốt, mạch nhanh, khát nước, táo, nước tiểu đỏ; âm thắng gây chứng hàn: người lạnh, tay chân lạnh ,mạch trầm, ỉa lỏng nước tiểu trong v.v…
Thiên suy: dương hư như các trường hơn não suy, hội chứng hưng phấn thần kinh giảm; âm hư: như mất nước, điện giải, hội chứng ức chế thần kinh giảm.
b)Trong quá trình phát triển của bệnh. tính chất của bệnh còn chuyển hoá lẫn nhau giữa hai mặt âm dương. Bệnh ở phần dương ảnh hưởng tới phần âm (dương thắng tắc âm bệnh). Thí dụ sốt cao kéo dài sẽ gây mất nước .Bệnh ở phần âm ảnh hưởng tới phần dương (âm thắng tắc dương bệnh). Thí dụ ỉa lòng, nôn mửa kéo dài mất nước diên giải làm nhiễm độc thân kinh, gây sốt, co giật thậm chí gây truy mạch (thoát dương)
c) Sự mất thăng bằng của âm dương vây ra những chứng bệnh ở những vị trí khác nhau của cơ thể tuỳ theo vị trí đó ở phần âm hay dương.
Dương thịnh sinh ngoại nhiệt: sốt người và tay chân nóng, vì phần dương của cơ thể thuộc biểu, thuộc nhiệt.
Âm thịnh sinh nội hàn: ỉa chảy, người sợ lanh, nước tiểu trong vì phần âm thuộc lý thuộc hàn. Âm hư sinh nội nhiệt: như mất nước, tân dịch giảm gây chứng khát nước, họng khô, táo, nước tiểu đỏ v.v…Dương hư sinh ngoại hàn: sơj lanh, tay chân lạnh vì phần dương khí ở ngoài bị giảm sút.
1.3.3. Về chần đoán bệnh tật
a) Dựa vào 4 phương pháp khám bệnh: nhìn (vọng), nghe (văn), hỏi (vấn) , sờ nắn, xem mạch (thiết) để khai thác các triệu chứng thuộc hàn hay nhiệt, hư hay thực của các tạng phủ kinh lạc.
b)Dựa vào 8 cương lĩnh để đánh giá vị trí nông sâu của bệnh, tính chất của bệnh, trạng thái người bệnh và xu thế chung nhất của bệnh tật (biểu lý, hư thực, hàn nhiệt và âm dương) trong đó âm và dương là 2 cương lĩnh tổng quát nhất gọi là tổng cương: thường bệnh ở biểu, thực, nhiệt thuộc dương bệnh ở lý, hư, hàn thuộc âm.
c) Dựa vào tứ chẩn để khai thác triệu chứng và căn cứ vào bát cương bệnh tật dược quy thành các hội chứng thiên thắng hay thiên suy về âm dương của các tạng phủ, kinh lạc v.v…
1.3.4. Về chữa bệnh và các phương pháp chữa bệnh
a) Chữa bệnh là điều hoà lại sự mất thăng bằng về âm dương của cơ thể tuỳ theo tình trạng hư thực, hàn, nhiệt của bệnh bằng các phương pháp khác nhau: thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công v.v…
b) Về thuốc được chia làm hai loại:
Thuốc lạnh, mát (hàn, lương) thuộc âm để chữa bệnh nhiệt thuộc dương .Thuốc nóng, ấm (nhiệt, ôn) thuộc dương đê chữa bệnh hàn thuộc âm.
c) Về châm cứu
Bệnh nhiệt dùng châm, bệnh hàn dùng cứu; bệnh hư thì bổ, bệnh thực thì tả.
Bệnh thuộc tạng (thuộc âm) thì dùng các huyệt Du sau lưng (thuộc dương); bệnh thuộc phủ (thuộc dương) thì dùng các huyệt Mộ ở ngực, bụng(thuộc âm), theo nguyên tắc: “theo dương dân âm, theo âm dẫn dương”.