HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH

Học thuyết ngũ hành được ứng dụng để quan sát quy nạp và nêu lên sự tương quan trong hoạt động sinh lý các tạng phủ, để chẩn đoán bệnh tật, để tìm tính năng và tác dụng thuốc, để tiến hành công tác bào chế thuốc

1 .Định nghĩa

Học thuyết ngũ hành là học thuyết âm dương, liên hệ cụ thể hơn trong việc quan sát quy nạp và sự liên quan của các sự vật trong thiên nhiên. Trong y học, học thuyết ngũ hành được ứng dụng để quan sát quy nạp và nêu lên sự tương quan trong hoạt động sinh lý các tạng phủ, để chẩn đoán bệnh tật, để tìm tính năng và tác dụng thuốc, để tiến hành công tác bào chế thuốc men

2.Nội dung của học thuyết ngũ hành

2.1. Ngũ hành là gì?

Người xưa thấy có 5 loại vật chính: kim (kim loại), mộc (gỗ), thuỷ (nước), hoả (lửa), thổ (đất) và đem các hiện tượng trong thiên nhiên và trong cơ thể con người xếp theo 5 loại vật chất trên gọi là ngũ hành. Ngũ hành còn có ý nghĩa nữa là sự vận động, chuyển hoá của các chất trong thiên nhiên và của tạng phủ trong cơ thể.

2.2. Sự quy nạp vào ngũ hành trong thiên nhiên và trong cơ thể con người

2.3.Các quy luật hoạt động của ngũ hành

a. Trong điều kiện bình thường hay sinh lý vật chất trong thiên nhiên và các loại hoạt động của cơ thể liên quan mật thiết với nhau, thúc đẩy nhau để vận động không ngừng bằng cách tương sinh (hành nọ sinh hành kia, tạng nọ sinh tạng kia) hoặc chế ước lẫn nhau để giữ được thế quân bình bằng cách tương khắc (hành hoặc tạng này chế ước hành hoặc tạng kia).

Quy luật tương sinh:

  • Ngũ hành tương sinh là chỉ mối quan hệ sinh ra nhau một cách thứ tự, thúc đẩy nhau phát triển của thuỷ, hoả, mộc, kim, thổ. Thứ tự của tương sinh là: mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc. Sự tương sinh này cứ lặp đi lặp lại không ngừng. Nếu đứng từ một hành mà nói thì sinh ra nó được gọi là “mẹ” do nó sinh ra được gọi là con.
  • Trong cơ thể con người: can mộc sinh tâm hoả, tâm hoả sinh tỳ thổ; tỳ thổ sinh phế kim; phế kim sinh thận thuỷ; thận thuỷ sinh can mộc.

b. Trong điều kiện bất thường hay bệnh lý, có hiện tượng hành nọ, tạng nọ khắc hành kia, tạng kia quá mạnh thì gọi là tương thừa hoặc hành nọ, tạng nọ không khắc được hành kia, tạng kia gọi là tương vũ.

Thí dụ về tương thừa: bình thường can mộc khắc tỳ thổ, nếu can khắc tỳ quá mạnh sẽ gây các hiện tượng đau dạ dày, ỉa chảy do thần kinh, khi chữa phải bình can (hạ hưng phấn của can) và kiện tỳ (nâng cao sự hoạt động của tỳ)

Thí dụ về tương vũ: bình thường tỳ khổ khắc thận thuỷ nếu tỳ hư không khắc được thận thuỷ sẽ gây ứ nước như trong bệnh ỉa chảy kéo dài gây phù dinh dưỡng, khi chữa phải kiện tỳ (nâng cao sự hoạt động của tỳ) và lợi niệu (để làm mất phù thũng)

Quy luật tương sinh, tương khắc được biểu hiện bằng sơ đồ sau:

3.Ứng dụng trong y học

3.1. Về quan hệ sinh lý

Sự sắp xếp các tạng phủ theo ngũ hành và sự liên quan của chúng đến ngũ vị, ngũ sắc, ngũ quan, thể chất và hoạt động về tính chí giúp cho việc học về các hiện tượng sinh lý các tạng phủ dễ dàng, dễ nhớ.

Thí dụ: can có quan hệ biểu lý với đởm, chủ về cân, khai khiếu ra mắt kích thích điều đạt, khi uất kết gây giận dữ…

3.2. Về quan hệ bệnh lý

Căn cứ vào ngũ hành tìm vị trí phát sinh một chứng bệnh của một tạng hay một phủ nào đó, để đề ra phương pháp chữa bệnh thích hợp.

Sự phát sinh ra một chứng bệnh ở một tạng phủ nào đó có thể xảy ra ở 5 vị trí khác nhau sau đây:

  • Chính tà: do bản thân tạng phủ ấy có bệnh
  • Hư tà: do dạng trước nó gây bệnh cho tạng đó, còn gọi là bệnh từ mẹ truyền sang con
  • Thực tà: do tạng sau nó gây bệnh cho tạng đó, còn gọi là bệnh từ con truyền sang mẹ
  • Vi tà: do tạng khắc tạng đó không khắc được mà gây ra bệnh (tương thừa)
  • Tặc tà: do tạng đó không khắc được tạng khác mà gây ra bệnh (tương vũ) Thí dụ: mất ngủ là một chứng bệnh của tâm có thể xảy ra ở 5 vị trí khác nhau và cách chữa cũng khác nhau:
  • Chính tà: bản thân tạng tâm gây ra mất ngủ: như thiếu máu không nuôi dưỡng tâm thần. Khi chữa phải bổ huyết an thần.
  • Hư tà: da tạng can gây bệnh cho tâm: như cao huyết áp gây mất ngủ. Khi chữa phải kiện tỳ an thần
  • Vi tà: do thận hư không khắc được tâm hoả gây mất ngủ. Khi chữa phải bổ âm an thần
  • Tặc tà: do phế âm hư ảnh hưởng đến tâm huyết gây mất ngủ, khi chữa phải bổ phế âm an thần

3.3. Về chẩn đoán

Căn cứ vào những triệu chứng ngũ sắc, ngũ vị, ngũ quan, thể chất để tìm bệnh thuộc các tạng phủ có liên quan

a. Ngũ sắc: sắc vàng bệnh thuộc tỳ, sắc trắng bệnh thuộc phế, sắc xanh bệnh thuộc can, sắc đỏ thuộc bệnh tâm, sắc đen bệnh thuộc thận.

b. Ngũ chí: giận giữ, cáu gắt bệnh ở can; sợ hãi bệnh ở thận; cười nói huyên thuyên bệnh ở tâm; lo nghĩ bệnh ở tỳ; buồn rầu bệnh ở phế.

c. Ngũ khiếu và ngũ thể: bệnh ở cân: chân tay run co quắp thuộc bệnh can; bệnh ở mũi: viêm mũi dị ứng, chảy máu cam…thuộc bệnh phế vị: bệnh ở mạch: mạch hư, nhỏ…thuộc bệnh tâm; bệnh ở xương tuỷ: chậm biết đi, chậm mọc răng…thuộc bệnh thận.

3.4. Về điều trị

a. Đề ra nguyên tắc chữa bệnh: hư thì bổ mẹ, thực thì tả con

Thí dụ: bệnh phế khí hư, phế lao…phải kiện tỳ vì tỳ thổ sinh phế kim (hư thì bổ mẹ)

Bệnh cao huyết áp do can dương thịnh phải chữa vào tâm (an thần) vì can mộc sinh tâm hoả (thực thì tả con)

b. Châm cứu

Trong châm cứu người ta tìm ra loại huyệt ngũ du. Tuỳ kinh âm, kinh dương mỗi loại huyệt tương ứng với một lành, trong một đường kinh quan hệ giữa các huyệt là quan hệ tương sinh, giữa hai kinh âm dương quan hệ giữa các huyệt là quan hệ tương khắc. Tên các huyệt ngũ du được đặt theo ý nghĩa của kinh khi đi trong đường kinh như dòng nước chảy:

  • Huyệt hợp: nơi kinh khí đi vào
  • Huyệt kinh: nơi kinh khí đi qua
  • Huyệt du: nơi kinh khí dồn lại
  • Huyệt huỳnh: nơi kinh khí chảy xiết
  • Huyệt tỉnh: nơi kinh khí đi ra

3.5. Về thuốc

a. Người ta tìm kiếm và xét tác dụng của thuốc đối với bệnh tật các tạng phủ trên cơ sở liên quan giữa vị, sắc với tạng phủ

  • Vị chua, mầu xanh vào can
  • Vị đắng, màu đỏ vào tâm
  • Vị ngọt, màu vàng vào tỳ
  • Vị cay, màu trắng vào phế
  • Vị mặn, mầu đen vào thận

b. Người ta còn vận dụng ngũ vị để bào chế làm vị thuốc thay đổi tính năng và tác dụng cho đi vào các tạng phủ theo yêu cầu chữa bệnh: sao với giấm cho vị thuốc vào can; sao với muối cho vị thuốc vào thận; sao với đường cho vị thuốc vào tỳ; sao với gừng cho vị thuốc vào phế…