Dân tộc Việt Nam với hơn 4.000 năm lịch sử vẻ vang, đã trải qua bao thăng trầm, biến cố, song luôn gìn giữ và phát triển nền văn hóa truyền thống độc đáo, trong đó có nền y học cổ truyền đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
1.1. Thời kỳ dựng nước (thời kỳ Hùng Vương – 2.900 năm trước Công nguyên)
Y học thời kỳ này còn mang tính truyền miệng, dựa trên kinh nghiệm dân gian và các truyền thuyết. Tổ tiên ta đã biết cách phòng bệnh bằng việc xây dựng nhà cửa kiên cố, lấy nước giếng sạch để ăn uống, phát minh ra lúa đê nương, sưởi âm, sử dụng gừng, riềng làm gia vị và chữa bệnh, dùng thịt trâu để bồi dưỡng cơ thể, nhuộm răng bằng các nguyên liệu tự nhiên (cánh kiến, ngũ bội tử, vỏ lựu…), làm bánh chưng, uống nước vối…
Theo Long Uý Bí thư, đến đầu thế kỷ thứ II trước Công nguyên, hàng trăm vị thuốc đã được phát hiện và sử dụng tại Việt Nam, bao gồm quả quân tử, sắn dây, sen, quế…
1.2. Thời kỳ đầu tranh giành độc lập lần thứ nhất (năm 111 trước Công nguyên – 938 sau Công nguyên)
Gần 1.000 năm dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, dân tộc ta không ngừng vùng lên chống giặc ngoại xâm. Bên cạnh chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, y học cổ truyền vẫn tiếp tục phát triển. Cha ông ta đã tìm tòi các phương pháp chữa bệnh và sử dụng các vị thuốc có trong nước, đồng thời tiếp thu y học Trung Quốc (Trung y) du nhập vào Việt Nam.
Nhiều vị thuốc được đưa sang Trung Quốc như trầm hương, đổi mối, tê giác… Các thầy thuốc Trung Quốc cũng sang Việt Nam chữa bệnh như Đồng Phụng, Lâm Thắng, Thân Quang Tốn…
Từ thời kỳ này trở đi, y học cổ truyền Việt Nam tiếp thu tinh hoa y học của các dân tộc khác, áp dụng sáng tạo để phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước.
1.3. Thời kỳ độc lập giữa các thời đại: Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trấn, Hồ (năm 939 – 1406)
Chiến thắng oanh liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của vua Ngô Quyền trên sông Bạch Đàng năm 938 đã kết thúc ách thống trị 1.000 năm của quân xâm lược phương Bắc, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ của đất nước.
Tuy nhiên, tài liệu ghi chép về y học dưới thời Ngô, Đinh, Lê còn hạn chế. Chỉ còn lại lịch sử y học thời Lý, Trần, Hồ.
1.3.1. Thời kỳ nhà Lý (1010 – 1224)
Triều đình nhà Lý thành lập Ty Thái y chuyên lo việc bảo vệ sức khỏe cho vua và quan lại. Nhiều thầy thuốc giỏi được cử đi chữa bệnh cho nhân dân. Việc trồng thuốc cũng được phát triển mạnh mẽ (di tích hiện nay còn để lại: xã Đại Yên – quận Ba Đình, Hà Nội có truyền thống trồng và sử dụng thuốc từ thời này).
Phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý được phát triển, tuy nhiên cũng mang màu sắc duy tâm và được triều đình dung túng. Năm 1136, lương y Nguyễn Chí Thành người Gia Viễn, Ninh Bình đã chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông bằng tâm lý liệu pháp và được phong làm quốc sư.
1.3.2. Thời kỳ nhà Trần (1225 – 1399)
Nho giáo phát triển mạnh mẽ, chống lại mê tín dị đoan, góp phần thúc đẩy y học phát triển.
Ty Thái y được đổi tên thành Viện Thái y. Từ năm 1362, triều đình chủ trương phát thuốc cho quân đội và nhân dân để bảo vệ sức khỏe, phòng chống quân Nguyên Mông xâm lược.
Thời kỳ này xuất hiện nhiều danh y và tác phẩm y học giá trị:
Hứa Hưng: Làm Thái y lệnh dưới triều vua Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông, được coi là danh y nổi tiếng nhất thời kỳ này. Ông đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của y học cổ truyền Việt Nam, bao gồm:
Phát triển y học lý luận: Hứa Hưng đã vận dụng triết học duy vật biện chứng vào nghiên cứu y học, đề cao vai trò của môi trường và chế độ sinh hoạt đối với sức khỏe con người.
Nâng cao hiệu quả chữa bệnh: Ông đã sáng tạo và ứng dụng nhiều phương pháp chữa bệnh mới, đồng thời hoàn thiện các phương pháp chữa bệnh truyền thống.
Truyền bá kiến thức y học: Hứa Hưng đã biên soạn nhiều tác phẩm y học giá trị, góp phần truyền bá kiến thức y học cho dân chúng.
Ngoài Hứa Hưng, còn có nhiều danh y khác như:
Tuệ Tĩnh: Nổi tiếng với tác phẩm “Nam dược thần hiệu” – bộ sách y học cổ truyền đầu tiên và quan trọng nhất của Việt Nam.
Chu Văn An: Vị thầy thuốc lớn, nhà nho lỗi lạc, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của y học và giáo dục.
Nguyễn Đại Năng: Danh y thời nhà Hồ, nổi tiếng với tác phẩm “Châm cứu tiệp hiệu diễn ca”.
1.3.3. Thời kỳ nhà Hồ (1400 – 1406)
Nhà Hồ đã cải thiện cách xã hội và mở rộng chữa bệnh cho nhân dân, xây dựng các cơ sở chữa bệnh, đây mạnh mẽ công dụng châm cứu.Danh y thời điểm này là Nguyên Đại Năng, người xã hội Am huyện Kinh Môn, Tỉnh Hải Dương, phụ trách Bộ thư quảng tế chuyên tổ chức các cơ sở y tế chữa bệnh cho nhân dân, đã viết “Châm cứu tiệp hiệu diễn ca” vận dụng 120 huyệt chữa bệnh trên 100 chứng thông thường.
1.4. Thời kỳ đấu tranh giành độc lập lần thứ hai (1407 – 1427)
Nước nhà bị phong kiến nhà Minh xâm lược, thời kỳ này tuy ngắn nhưng rất tai hại đến nền văn hoá dân tộc. Chúng vơ vét sách vơ, thuốc ,đưa các sĩ phu, danh y Việt Nam về nước (tập Cúc đường di cáo của Trần nguyên Đào , Dược tháo tân biên của Nguyễn Chí Tân) y học do đó không phát triển.
Kết luận:
Y học cổ truyền Việt Nam có lịch sử lâu đời và trải qua nhiều thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc. Y học cổ truyền đã đóng góp to lớn cho việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa dân tộc. Ngày nay, y học cổ truyền Việt Nam vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và đang được tiếp tục nghiên cứu, phát triển để ngày càng hoàn thiện hơn.